Loigiaihay.com 2025

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Độc Tiểu Thanh Kí Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức tập 2

Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Văn bản thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Duy về số phậ bất hạnh của người phụ nữ có tài có sắc trong xã hội phong kiến. Đồng thời thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du. Chú ý sự đồng cảm với bi kịch của người phụ nữ và cảm thán về thân phận của chính mình.

Nội dung chính:

Văn bản thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Duy về số phậ bất hạnh của người phụ nữ có tài có sắc trong xã hội phong kiến. Đồng thời thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

* Trước khi đọc:

Câu 1 (trang 17, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Kể tên một vài tác phẩm văn chương Việt Nam viết về thân phận bất hạnh của người phụ nữ mà bạn biết.

Phương pháp:

Dựa vào hiểu biết của bản thân để trả lời câu hỏi này. 

Lời giải:

Chuyện người con gái Nam Xương, Tự tình, Bánh trôi nước, Chinh phụ ngâm,...

Câu 2 (trang 17, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Qua nhân vật Thúy Kiều, hãy chia sẻ cảm nghĩ của bạn về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.  

Phương pháp:

Dựa vào cảm nhận của bản thân để trả lời câu hỏi này.

Lời giải:

Một số suy nghĩ có thể là:

- Người phụ nữ có tài sắc thường phải chịu nhiều nỗi truân chuyên.

- Người phụ nữ không được học hành, thi cử.

- Người phụ nữ không được quyền quyết định trong tình yêu đôi lứa....

* Trong khi đọc:

Câu 1 (trang 18, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Theo dõi mạch cảm xúc của tác giả trong bài thơ.   

Phương pháp:

Chú ý vào mạch cảm xúc của bài thơ. 

Lời giải:

Từ thương một người con gái tài hoa, Nguyễn Du thương cho muôn kiếp hoa; từ thương người, Nguyễn Du ngậm ngùi trong nỗi thương mình.

Câu 2 (trang 18, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Chú ý sự đồng cảm với bi kịch của người phụ nữ và cảm thán về thân phận của chính mình.     

Phương pháp:

Chú ý vào bi kịch của nhân vật trữ tình. 

Lời giải:

Sự đồng cảm của Nguyễn Du, từ thương người, Nguyễn Du chuyển mạch đến thương mình. Câu hỏi hướng đến những điệu hồn tri âm. Không hỏi quá khứ, không hỏi hiện tại vì quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câu hỏi hướng đến tương lai. Với nàng Tiểu Thanh ba trăm năm sau đã có Nguyễn Du thổn thức, không biết với bản thân mình, liệu ba trăm năm sau có ai biết đến mà cảm thông?  Câu thơ trĩu nặng, đầy tủi hổ tưởng có thể buông xuôi.

* Sau khi đọc:

Nội dung chính: 

Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh- một hồng nhan bạc mệnh, một tài năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng nói chung. Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trọng những người làm nên các giá trị văn hóa tinh thần.

Câu 1 (trang 19, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Theo bạn, nội dung câu 1 và câu 2 của bài thơ có mối quan hệ logic với nhau như thế nào?   

Phương pháp:

Chú ý vào câu 1, 2.

Lời giải:

Hình ảnh thơ đối lập giữ quá khứ và hiện tại: Tây Hồ hoa uyển(vườn hoa bên Tây Hồ) – thành khư (gò hoang).

→ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh

⇒ Hai câu thơ diễn tả tâm trạng của Nguyễn Du trước cảnh hoang tàn, đó cũng chính là nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho số phận của nàng Tiểu Thanh.

Câu 2 (trang 19, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Chỉ ra và nhận xét mối quan hệ đối vế ý trong hai câu thực. 

Phương pháp:

Chú ý vào nội dung của hai câu tiếp.

Lời giải:

Chi phấn// hữu thần// liên/ tử hậu,

Văn chương// vô mệnh// lụy/ phần dư.

(Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,

Văn chương không có số mệnh, phải chịu lụy bị đốt dở)

+ “son phấn” (vẻ đẹp thân sắc, dung nhan) >< văn chương (vẻ đẹp tâm hồn, tài năng).

+ có thần thái (son phấn có hình sắc cụ thể) ><  không có thân mệnh (vô hình, chỉ có thể cảm nhận)

+ son phấn phải chịu nỗi xót xa ngay cả khi đã chết >< văn chương thì bị đốt chỉ còn sót lại.

Nhận xét về phép đối:

→ Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.

→ Hai câu thơ cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời cũng là tấm lòng trân trọng, ngợi ca nhan sắc và đề cao tài năng trí tuệ của Tiểu Thanh; đồng thời có sức tố cáo mạnh mẽ.

Câu 3 (trang 19, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Phân tích những cảm xúc và suy ngẫm của tác giả được thể hiện qua hai câu luận.    

Phương pháp:

Chú ý vào 2 câu luận.

Lời giải:

- “Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.

- Thiên nan vấn: khó mà hỏi trời được.

→ Câu thơ mang tính khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện sự đau đớn phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

- Kì oan: nỗi oan lạ lùng

- Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa mà giờ đây ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.

⇒ Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”.

Câu 4 (trang 19, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Chia sẻ suy nghĩ của bạn về tâm sự của Nguyễn Du ở hai câu kết.   

Phương pháp:

Chú ý vào 2 câu kết.

Lời giải:

Thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu). Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khư nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai.

Câu 5 (trang 19, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Qua bài thơ, tác giả đã khái quát về bi kịch chung của những người tài hoa, phong nhà trong xã hội phong kiến như thế nào?    

Phương pháp:

Đưa ra quan điểm của bản thân về thông điệp của bài.

Lời giải:

Bài thơ này đã khái quát sâu sắc bi kịch chung của những con người đáng quý trọng nhưng cuộc đời làm cho bầm dập: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, “Bắt phong trần phải phong trần”, “Có tài mà cậy chi tài:, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”, “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Thông qua sự khái quát về thân phận cái đẹp, số phận con người, tác giả đã thể hiện những suy ngẫm, triết lí, dự cảm đầy tính nhân văn.

Câu 6 (trang 19, SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai):

Hãy tìm đọc và giới thiệu một vài tác phẩm viết về đề tài người phụ nữ của Nguyễn Du.

Phương pháp:

Dựa vào việc tìm kiếm trên mạng và hiểu biết của bản thân để trả lời câu hỏi này. 

Lời giải:

Một số tác phẩm tìm đọc:  Điếu La Thành ca giả; Vọng phu thạch; Long Thành cầm giả ca; Dương Phi cố lí; Sở kiến hành; Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu,...

* Kết nối đọc – viết

Câu hỏi (trang 19, SGK Ngữ Văn 11  tập hai):

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) so sánh nội dung hai câu luận của Độc Tiểu Thanh kí với nội dung hai câu thơ trong Truyện Kiều:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Phương pháp:

Đọc kỹ câu thơ trên và câu luận trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí. 

Lời giải:

Đoạn văn tham khảo:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Hai câu thơ này được Nguyễn Du viết - lời cảm thán của Kiều khi đứng trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên - một người kĩ nữ. Hai câu thơ bật lên như một lời than thở của Kiều hay cũng chính là của Nguyễn Du trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng. Lời thơ như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả, chính Nguyễn Du cũng đã có những năm tháng phiêu bạt phải chịu cảnh đói, cnahr nghèo, có lẽ vì thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ xưa. Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là tấm lòng nhân đạo đầy cao cả của ông dành cho những người phụ nữ Việt Nam xưa - những thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong kiến đương thời. Hai câu luận của Độc Tiểu Thanh kí, nhà thơ muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lòng mình rằng xưa nay những người tài hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều, việc đó chỉ có trời mới hiểu. Nhưng dù trời có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét của người vợ cả, của người đời về lối sống phong lưu đài các, nhàn nhã của người có tài.  Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”.

Sachbaitap.com

Bài tiếp theo

Bài viết liên quan