Loigiaihay.com 2024

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bức tranh, pho tượng) SGK Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo tập 2

Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Soạn Văn 11 CTST tập 2 bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bức tranh, pho tượng). Cách mở bài của văn bản trên có gì đặc sắc? Các luận điểm trong văn bản bàn về vấn đề gì? Những câu nào là câu chủ đề của mỗi luận điểm?

*Đọc ngữ liệu tham khảo 1:

Câu 1 (trang 70 SGK Ngữ Văn 11 CTST tập hai):

Cách mở bài của văn bản trên có gì đặc sắc?

Phương pháp:

Từ văn bản phần ngữ liệu tham khảo, nhận xét về cách mở bài của văn bản.

Lời giải:

- Nét đặc sắc trong cách mở bài của bài viết này là từ thực tế của việc huỷ hoại môi trường dẫn dắt vào hình ảnh chim chào mào trong bài thơ; đồng thời, nêu được tên tác giả, tác phẩm.

Câu 2 (trang 70 SGK Ngữ Văn 11 CTST tập hai):

Các luận điểm trong văn bản bàn về vấn đề gì? Những câu nào là câu chủ đề của mỗi luận điểm?

Phương pháp:

Khai thác nội dung của văn bản, dựa vào những chi tiết, nội dung nổi bật để chỉ ra vấn đề mà các luận điểm đã đề cập. Đồng thời chỉ ra những câu chủ đề của các luận điểm.

Lời giải:

- Có hai luận điểm trong văn bản, luận điểm thứ nhất bản vẽ nét đặc sắc của nội dung, luận điểm thứ hai bàn vẽ nét đặc sắc của nghệ thuật.

- Câu chủ đề của luận điểm thứ nhất là “Về nội dung, bài thơ gợi ra những thông điệp đa nghĩa, câu chủ đề của luận điểm thứ hai là “Vẽ hình thức nghệ thuật, bài thơ có nhiều nét đặc sắc”.

Câu 3 (trang 70 SGK Ngữ Văn 11 CTST tập hai):

Tác giả đã sử dụng những lý lẽ, bằng chứng nào để làm sáng tỏ luận điểm?

Phương pháp:

Khai thác nội dung của văn bản, dựa vào những chi tiết, nội dung nổi bật để chỉ ra những lí lẽ, bằng chứng được tác giả đưa ra để sáng tỏ các luận điểm.

Lời giải:

- Để làm sáng tỏ luận điểm thứ nhất, tác giả đã dùng hai lí lẽ:

+  Câu chuyện về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên;

+  Giúp người đọc phân biệt được cái đẹp và cái có ích.

- Để làm sáng tỏ luận điểm thứ hai, tác giả đã dùng hai lí lẽ:

+  Hình ảnh tượng trưng, giàu ý nghĩa;

+  Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi, có sức gợi cảm, kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm.

- Để tăng sức thuyết phục cho lí lẽ, tác giả đã sử dụng các bằng chứng từ bài thơ: khung nắng, khung gió, nhành cây xanh; con chào mào đầm trắng mũ đỏ; tôi ôm khung nắng, khung gió…

*Đọc ngữ liệu tham khảo 2:

Câu 1 (trang 71 SGK Ngữ Văn 11 CTST tập hai):

Nội dung luận điểm thứ nhất và thứ hai là gì?

Phương pháp:

Khai thác nội dung văn bản ngữ liệu tham khảo và dựa vào phần chú thích bên cạnh văn bản đề tìm ra nội dung của các luận điểm.

Lời giải:

- Nội dung luận điểm thứ nhất là nội dung bức tranh, nội dung luận điểm thứ hai là kĩ thuật vẽ tranh.

Câu 2 (trang 71 SGK Ngữ Văn 11 CTST tập hai):

Tác giả đã dùng những lí lẽ, bằng chứng nào để làm sáng tỏ luận điểm.

Phương pháp:

Khai thác nội dung của văn bản, dựa vào những chi tiết, nội dung nổi bật để chỉ ra những lí lẽ, bằng chứng được tác giả đưa ra để sáng tỏ các luận điểm.

Lời giải:

- Những lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ luận điểm thứ nhất là trọng tâm bức tranh, sự hoà quyện đầy uyển chuyển và trữ tình giữa hình ảnh và âm thanh, mời gọi người xem trải nghiệm khoảnh khắc được lưu lại trong bức tranh.

- Những lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ luận điểm thứ hai là bố cục bức tranh, hướng nhìn của cô gái và phông nền bức tranh.

Câu 3 (trang 71 SGK Ngữ Văn 11 CTST tập hai):

Cách kết luận của bài viết này có điểm gì khác với cách kết luận của bài viết “Con chào mào” một thông điệp đa nghĩa?

Phương pháp:

Theo dõi hai kết luận ở phần văn bản ngữ liệu tham khảo 1 và 2, từ đó nhìn ra điểm khác biệt và từ đó đưa ra những nhận xét của bản thân.

Lời giải:

- Trong khi cách kết luận của "Con chào mào", một thông điệp đa nghĩa là tóm tắt nội dung, nghệ thuật của bài thơ thì cách kết luận của "Thiếu nữ chơi đàn nguyệt” – tranh lụa của Mai Trung Thứ khẳng định giá trị cũng như vai trò của bức tranh trong việc mở ra một chương mới trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.

*Thực hành viết:

Câu hỏi (trang 71 SGK Ngữ Văn 11 tập hai):

Hãy viết bài văn nghị luận về một bài thơ hoặc một bức tranh/ pho tượng mà bạn yêu thích.

Phương pháp:

Dựa vào cảm nhận, sở thích và sự quan sát của mình để viết bài văn nghị luận mà đề bài đưa ra. Cần chú ý đảm bảo bố cục của một bài văn nghị luận, đồng thời đảm bảo tính xác thực của những lí lẽ, bằng chứng mà mình đưa ra.

Lời giải:

Bài viết tham khảo:

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ tài danh của nước ta vào nửa cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Dù là người con gái tài danh nhưng cuộc đởi truân chuyên, hồng nhan bạc mệnh như bao người phụ nữ sống dưới xã hội phong kiến đầy bất công. Bà đã rất nhiều lần mang cái thân phận nhỏ bé ấy của người phụ nữ sống dưới chế độ cũ vào trang thơ của mình. Tự tình là một trong những sáng tác hay của Hồ Xuân Hương khi thể hiện nỗi đau đớn, buồn tủi trước những tình cảnh éo le của mình, đồng thời thể hiện khát khao mãnh liệt về hạnh phúc cuộc đời.

Bài thơ được thể hiện dưới dạng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Mở đầu bài thơ là hai câu đề giới thiệu không gian và thời gian của nhân vật trữ tình:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Nhà thơ mở đầu bài thơ với thời gian là một đêm khuya vắng. Người ta thường nói “đêm khuya” thường là lúc con người ta bắt đầu suy tư, đầy tâm trạng. Và ở đây với Hồ Xuân Hương cũng vậy. Thời điểm rất hợp với những tâm sự chất chứa trong lòng bà. Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh dồn cho người đọc thấy được đó là những âm thanh từ xa vọng lại cứ văng vẳng bên tai người thi sĩ. Và hẳn là một đêm đã khuya lắm rồi, yên tĩnh lắm mới cảm nhận được tiếng trống từ xa vọng lại như thế. Hai từ “hồng nhan” kết hợp với tính từ “trơ” được đảo lên đầu câu thơ như nhấn mạnh sự buồn tủi, cô đơn đến bẽ bàng của người phụ nữ. “Nước non” là một không gian rộng lớn bao la, hình ảnh ẩn dụ của cả một xã hội đầy rẫy những bất công. Hình ảnh “hồng nhan” thật nhỏ nhoi đối lập với sự rộng lớn của “nước non” càng gợi lên sự nhỏ bé, tủi hổ của người phụ nữ trước cuộc đời này. Chỉ có một hồng nhan đương đầu với nước non càng khẳng định sự trống vắng, cô lieu và sự đơn độc trong tâm hồn người thi sĩ.

Trước không gian buồn vắng, nhà thơ tiếp tục nói lên hoàn cảnh eo le và nỗi đau cho thân phận của mình trong hai câu thực:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Không một ai quan tâm, không một ai để giãi bày tâm sự, người thi sĩ mượn “chén rượu” để giải tỏa cho nỗi lòng của mình. Nhưng dường như càng uống lại càng tỉnh, tỉnh lại say. Cụm từ “say lại tỉnh” cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa của Hồ Xuân Hương. Bà uốn say để quên đi những ưu phiền nhưng rồi cứ say lại tỉnh, và đã tỉnh lại nghĩ đến nỗi đau, ray rứt của bản thân. Không chỉ có rượu mà trong câu còn xuất hiện vầng trăng như một người bạn. Nhưng vầng trăng ấy cũng không được tròn đầy viên mãn, mà lại “khuyết chưa tròn”. Bà nhìn lên vầng trăng cũng chỉ thấy một vầng trăng “khuyết”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự dang dở trong hạnh phúc cuộc đời bà. Đúng như Nguyễn Du có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Khi buồn thì nhìn đâu cũng chỉ thấy cảnh sầu mà thôi.

Từ những nỗi phẫn uất trong lòng, tâm trạng nhà thơ thêm dồn nén như muôn tức nước vỡ bờ:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Nhà thơ nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên chỉ thấy “đất” “rêu” “mây” “đá”. Cảnh vật xơ xác, hoang tàn không một sức sống mà chỉ thấy một màu u ám, cứng nhắc. Các động từ mạnh “xiên ngang” “đâm toạc” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh một sự đấu trọi của thiên nhiên. Sự đối chọi nhỏ bé của “rêu” với mặt đất rộng, của “mấy hòn đá” nhỏ nhoi với “chân mây” lớn như hình ảnh ẩn dụ cho cái sự bức bối, muốn phá phách, muốn vùng lên phản kháng của người phụ nữ. Đọc tơi đây, người đọc nhận thấy một sự mãnh mẽ muốn đạp lên những bất công để đòi lại công bằng cho thân phận bé nhỏ của nhà thơ. Tâm trạng ở những câu thơ này dường như dâng lên đến cao trào.

Kết lại bài thơ thất ngôn bát cú, thi sĩ quay lại với tâm trang chán nản đến ngao ngán, đau khổ trước tình duyên ngang trái, éo le:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tỉnh san sẻ tí con con”

Từ “ngán” được đặt ở đầu câu thơ nhắn mạnh nỗi chán chường trong lòng người thi sĩ. Cụm từ “xuân đi” đối lập với “xuân lại lại” thể hiện một sự buồn chán và tẻ nhạt. Cụm từ “mảnh tình” cho thấy một thứ tình cảm nhỏ bé như một “mảnh” có thể đếm đong được. Đã nhỏ bé đến mức có thể đong đếm được lại còn phải “san sẻ” cho người khác từng “tí con con”. Cụm từ “tí con con” càng cho thấy thứ tình cảm đang phải san sẻ kia quá nhỏ bé, nhỏ bé đến mức không còn nhỏ hơn được nữa. Đọc tới đây, người đọc càng hiểu được nỗi niềm buồn đau của nữ sĩ. Điều đó cũng từng được thể hiện trong bài thơ khác:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

Tự tình là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn đau, tủi hổ và cô đơn của thân phận người phụ nữ trước tình cảnh éo le trong tình duyên. Qua đó cũng thể hiện niềm khát khao mãnh liệt muốn vùng lên vượt khỏi bi kịch cuộc đời ấy nhưng vẫn chưa tìm ra lối thoát. Bài thơ điển hình cho nỗi đau chung của người phụ nữ sống trong xã hội cũ, để lại những ấn tượng sâu lắng trong trái tim độc giả.

Sachbaitap.com

Bài tiếp theo

Bài viết liên quan