Xem thêm: Bài 7. Tùy bút, tản văn, truyện kí
Đọc văn bản “Bánh mì Sài Gòn” (trang 82 sgk Ngữ văn 11 Tập 2) và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Câu 1 (trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Theo em, vì sao tác giả chọn viết về món bánh mì Sài Gòn?
A. Vì đó là món ăn đồng thời là một hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội
B. Vì đó là món ăn nổi tiếng của người Sài Gòn lúc bấy giờ
C. Vì đó là món ăn ngon được nhiều người Sài Gòn yêu thích
D. Vì đó là món ăn có nguồn gốc thuần tuý của Việt Nam
Phương pháp:
Đọc kỹ văn bản và tìm ra lý do, những điều đặc sắc về bánh mì Sài Gòn.
Trả lời:
Chọn đáp án A: Vì đó là món ăn đồng thời là một hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội.
Câu 2 (trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Phương án nào dưới đây nêu đúng và đủ nhất bố cục của văn bản Bánh mì Sài Gòn?
A. Giới thiệu món bánh mì lần đầu tiên được du nhập vào Việt Nam, từ đó khái quát về quy luật phát triển của văn hoá
B. Giới thiệu quy luật giao lưu và hội nhập của văn hoá, từ đó lí giải cụ thể về món bánh mì ở Việt Nam
C. Giới thiệu quy luật giao lưu và hội nhập văn hoá, từ đó lí giải về sự biến tấu đa dạng của món bánh mì ở Việt Nam
D. Giới thiệu bánh mì du nhập vào Việt Nam và dần trở thành món ăn quen thuộc, từ đó khái quát về quy luật phát triển của văn hoá
Phương pháp:
Đọc kĩ văn bản và xác định nội dung để chỉ ra bố cục.
Trả lời:
Chọn đáp án D: Giới thiệu bánh mì du nhập vào Việt Nam và dần trở thành món ăn quen thuộc, từ đó khái quát về quy luật phát triển của văn hóa.
Câu 3 (trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Vì sao bánh mì được du nhập vào nước ta, sớm nhất ở Sài Gòn?
A. Vì đó là thành phố có rất nhiều người thích ăn bánh mì
B. Vì đó là thành phố có nhiều người “Tây” và “Tàu” cùng sinh sống
C. Vì đó là thành phố ngã ba, nơi giao lưu của nhiều cách sống
D. Vì ở đó có nhiều đầu bếp nổi tiếng đến sinh sống và làm việc
Phương pháp:
Đọc kĩ văn bản, chú ý đoạn 1 để hiểu lí do.
Trả lời:
Chọn đáp án C: Vì đó là nơi có rất nhiều người Tây, Tàu cùng sinh sống.
Câu 4 (trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Phương án nào dưới đây nêu đúng giá trị văn hoá của món bánh mì?
A. Phát triển đồng thời trên cả hai con đường tự giác và tự phát
B. Đáp ứng được nhu cầu ích dụng của cuộc sống đời thường
C. Tương tác để tạo nên sự cân bằng của cuộc sống con người
D. Trở thành phòng thí nghiệm của sự tiến bộ xã hội loài người
Phương pháp:
Đọc kĩ văn bản, chú ý đoạn 2 tìm ra những chi tiết thể hiện giá trị văn hóa của món bánh mì.
Trả lời:
Chọn đáp án A: Phát triển đồng thời trên cả hai con đường tự phát và tự giác
Câu 5 (trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Câu văn nào dưới đây cho biết đánh giá của tác giả về vai trò của bánh mì trong đời sống hiện nay?
A. Ấy thế mà, như trên đã nói, có lúc nó được coi là thứ không nên đụng đến, không thuộc hệ chuẩn giá trị truyền thống của “đạo nhà”.
B. Loại thức ăn này tồn tại trong cái nhìn của dân ta là bánh – hiểu là món ăn chơi, không phải là thực phẩm thường xuyên như cơm ..
C. Nói chung, giờ đây bánh mì đã là một thành tố quan trọng trong cái mà thế nhân đời nay gọi là “văn hoá ẩm thực".
D. Có lẽ, bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng ắt hẳn được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định.
Phương pháp:
Đọc kĩ văn bản, đọc các đáp án để chọn đáp án phù hợp
Trả lời:
Chọn đáp án C: Nói chung giờ đây bánh mì đã là một thành tố quan trọng trong cái mà thế nhân đời nay gọi là văn hóa ẩm thực.
Câu 6 (trang 86 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Hãy làm rõ sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản trên qua một số biểu hiện cụ thể, đồng thời, nhận xét về tác dụng của sự kết hợp ấy.
Phương pháp:
Đọc kỹ văn bản, tìm ra sự kết hợp tự sự và trữ tình, tác dụng của sự kết hợp trong việc thể hiện nội dung.
Trả lời:
Chất trữ tình trong văn bản thể hiện ở việc tác giả nêu lên cảm xúc, suy nghĩ của mình về các giá trị văn hóa.
Văn bản viết theo ngôi thứ nhất. Cái tôi trong văn bản thể hiện trực tiếp những cảm xúc, suy nghĩ riêng của tác giả.
Ngôn ngữ văn bản tinh tế, sống động, mang hơi thở đời sống, giàu hình ảnh và chất trữ tình.
-> Việc kết hợp như vậy giúp tác giả thể hiện được hết những tâm tư, suy nghĩ của mình về vấn đề nói đến. Đồng thời cũng giúp bài viết trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc.
Câu 7 (trang 86 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Từ trường hợp ổ bánh mì, tác giả văn bản đã mở rộng bàn luận về vấn đề gì?
Phương pháp:
Đọc kĩ văn bản, tìm ra vấn đề tác giả bàn luận.
Trả lời:
Từ trường hợp ổ bánh mì, tác giả văn bản đã mở rộng bàn luận về vấn đề tiến trình phát triển của văn hóa.
Câu 8 (trang 86 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Tác giả văn bản thể hiện quan điểm như thế nào về vấn đề phát triển văn hoá? Em có đồng tình với quan điểm của tác giả không? Tại sao?
Phương pháp:
Đọc kĩ văn bản, tìm ra quan điểm phát triển văn hóa, đưa ra quan điểm bản thân và lí giải.
Trả lời:
Theo tác giả, văn hoá phát triển đồng thời trên cả hai con đường tự giác và tự phát, trong từng thời đoạn cụ thể, mỗi con đường mạnh yếu khác nhau, nhưng chúng luôn tương tác để tạo nên sự cân bằng của chính thể văn hoá.
Em đồng ý với quan điểm của tác giả bởi trong câu chuyện "ổ bánh mì", tác giả đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, rõ ràng và thuyết phục cho quan điểm này.
Câu 9 (trang 86 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Từ văn bản Bánh mì Sài Gòn, hãy nêu suy nghĩ của em về một thái độ cần có của thế hệ trẻ ngày nay đối với việc tiếp nhận các yếu tố văn hoá nước ngoài.
Phương pháp:
Từ vấn đề được nêu ra qua văn bản, cùng với những kiến thức cuộc sống để đưa ra được suy nghĩ.
Trả lời:
Từ văn bản Bánh mì Sài Gòn, chúng ta dễ dàng nhận ra việc du nhập văn hóa nước ngoài là một trong những vấn đề rất được quan tâm, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Thế hệ trẻ là những con người năng động, nhiệt huyết, ưa tìm tòi, khám phá. Khi mạng xã hội phát triển, thế hệ trẻ có nhiều điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau về tư tưởng, văn hóa của một số quốc gia khác. Một số văn hóa nước ngoài du nhập vào nước ta mang lại những lợi ích nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích vẫn tồn tại những hạn chế. Giới trẻ phần đông là những người chưa trải nghiệm nhiều, trong họ tiềm ẩn những nhân tố tiêu cực như: dễ chán nản, hoang mang. dao động trước khó khăn, dễ bị kích động, nhẹ dạ cả tin, tiếp nhận thông tin ít chọn lọc. Việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài mà không có chọn lọc, nhìn nhận kĩ vấn đề dễ mang lại những nguy cơ tiềm ẩn như làm xấu, mất đi văn hóa dân tộc... Chính vì vậy, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về văn hóa giới trẻ ngay khi còn đang trên ghế nhà trường.
Câu 10 (trang 86 SGK Ngữ văn 11 Tập 2):
Hãy giới thiệu (khoảng 12 – 15 dòng) về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn đồ uống mà em yêu thích, trong đó có trích dẫn các tài liệu mà em tham khảo được.
Phương pháp:
Từ vấn đề được nêu ra qua văn bản, cùng với những kiến thức cuộc sống viết một đoạn văn giới thiệu.
Trả lời:
Bài kham khảo 1
Bánh chưng là những món ăn truyền thống mang đậm nét văn hoá của người Việt. Giải thích về sự ra đời của bánh chưng, chúng ta có truyền thuyết bánh chưng, bánh dày: "Truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày” xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua nhất sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Riêng Lang Liêu là người con nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, mà đã dùng ngay những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh tượng trưng cho trời tròn và đất vuông (còn được gọi là bánh chưng và bánh dày) để làm lễ vật dâng vua cha. Lễ vật của Lang Liêu hợp với ý vua Hùng nhất và nhà vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu… Từ đó bánh Chưng, bánh dày đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với tiên tổ, cha, ông." (Nguyễn Quyên (2021), Phong tục gói bánh chưng ngày Tết, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam).Truyền thuyết trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống hiếu kính; lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của bánh chưng, bánh dày là nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc.
Bài kham khảo 2
Người Việt luôn tự hào giới thiệu với bạn bè quốc tế về nền ẩm thực phong phú, đặc sắc của nước mình, với các món “quốc hồn quốc túy” như: Phở, Bún bò, Bánh xèo, Bún chả, Bánh cuốn, Bánh bột lọc... đậm đà hương vị truyền thống. Trong đó, Phở không chỉ là một món ăn ngon mà còn trở thành “đại sứ ẩm thực”, góp phần vinh danh văn hóa của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Hương vị của món ăn này hội tụ đầy đủ những gì tinh túy nhất trong ẩm thực Việt Nam. Nhiều du khách quốc tế đến tham quan, du lịch tại Việt Nam, ngoài việc khám phá những địa điểm tham quan nổi tiếng, ai cũng từng một lần vào quán, gọi tô Phở nóng hổi để thưởng thức, mà không phải gọi bằng từ tiếng Anh là “noodle” gọi thẳng là “Phở”. Món Phở bò là món tâm đắc nhất của thực đơn Phở, món ăn này được bán mỗi ngày tại các quán ven đường, các quán cà phê, trong các nhà hàng, thậm chí cả các khách sạn 5 sao, dù ở đâu, Phở cũng được người dân ưa chuộng. Gánh phở đầu tiên theo tài liệu của Vũ Bằng, Băng Sơn đã xuất hiện ở ga Hàng Cỏ năm 1901. Tuy nhiên, người đầu tiên bán phở ghi nhận được, theo các gia đình ở Vân Cù, Nam Định, ông Vạn là người đầu tiên trong ra Hà Nội mở quán ở phố Hàng Hành, mạn Tây Bắc hồ Gươm,năm 1925. Phở có nhiều biến thể theo từng vùng miền, phở xuất hiện ở khắp mọi nơi dọc theo chiều dài đất nước Việt Nam.
Sachbaitap.com
Bài viết liên quan
Các bài khác cùng chuyên mục