Xem thêm: Bài 3. Khát khao đoàn tụ
Nội dung chính Tú Uyên gặp Giáng Kiều:
Tú Uyên gặp Giáng Kiều - câu chuyện cổ tích nói về câu chuyện chàng trai Tú Uyên thầm yêu cô gái Giáng Kiều xinh đẹp và sau đó là chuỗi ngày tìm đến nhau tìm hạnh phúc của đôi trẻ.
* Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 63, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Theo bạn, thế nào là " người đẹp trong tranh" hay " người đẹp như tranh"? Hãy thử chia sẻ tưởng tượng của bạn về hình ảnh người đẹp bước ra từ bức tranh.
Phương pháp:
Bằng vốn hiểu biết, trí tưởng tượng, suy luận của bản thân, bày tỏ những suy nghĩ của mình về nhận định “người đẹp trong tranh” hay “người đẹp như tranh”. Từ đó chia sẻ tưởng tượng của mình về hình ảnh người đẹp bước ra từ bức tranh.
Trả lời:
Theo em, “người đẹp trong tranh” hay “người đẹp như tranh” là nhận định để miêu tả vẻ đẹp xuất chúng, nghiêng nước nghiêng thành, đẹp tựa tranh vẽ.
Hình ảnh người đẹp bước ra từ bức tranh theo tưởng tượng của em là vẻ đẹp tuyệt tác, hiếm ai có được những nét đẹp ấy bởi tranh vẽ luôn dựa vào những chuẩn mực hoàn hảo.
* Đọc văn bản
Câu 1 (trang 64, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Bạn có nhận xét gì tình cảm của chàng Tú Uyên trong đoạn này?
Phương pháp:
Khai thác nội dung đoạn thơ để thấy được tình cảm của chàng Tú Uyên, từ đó đưa ra nhận xét của bản thân.
Trả lời:
- Tình cảm của chàng Tú Uyên trong đoạn này: là tình cảm si mê, cảm động trước vẻ đẹp thuần khiết, trong sáng của cô nàng Giáng Kiều.
Câu 2 (trang 67, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Hãy hình dung sự thay đổi của khung cảnh trước và sau khi nàng tiên Giáng Kiều làm phép.
Phương pháp:
Dựa vào trí tưởng tượng của bản thân và những chi tiết trong văn bản, hình dung sự thay đổi của khung cảnh trước và sau khi nàng tiên Giáng Kiều làm phép.
Trả lời:
- Khung cảnh trước khi nàng tiên Giáng Kiều làm phép: “Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình”, “ngày tưởng đêm mơ đã chồn”, “ruột héo, gan mòn”, “nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi”
→ Khung cảnh ảm đạm, ủ rũ, cô đơn, chỉ cô độc mình chàng Tú Uyên ngẩn ngơ, ôm mộng tương tư mỏi mệt. Ngày ngày chỉ biết thẫn thờ, tiếc nuối bóng nàng, quên ăn uống.
- Khung cảnh sau khi nàng tiên Giáng Kiều làm phép: “tưng bừng sắm sửa tiệc hoa/ Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương”, “tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa”, “thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài/ Tường quang sáng một góc trời”, “bên nói bên cười”, “bên mừng cố hữu, bên mời tân lang”, “khoe thắm đua vàng”.
→ Từ khi Giáng Kiều làm phép, khung cảnh bừng tỉnh, được ban phát sự sống. Cả khung cảnh bừng sáng, nhộn nhịp, vui vẻ, đông đúc.
* Sau khi đọc
Câu 1 (trang 67, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Dựa vào tóm tắt, cho biết cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình nào?
Phương pháp:
Đọc lại văn bản, dựa vào tóm tắt và vận dụng kiến thức của bản thân, cho biết cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình nào.
Trả lời:
Cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình: Gặp gỡ - Tai biến – Đoàn tụ.
Câu 2 (trang 67, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Chỉ ra chi tiết có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản.
Phương pháp:
Từ văn bản, tìm và chỉ ra những chi tiết đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản.
Trả lời:
Chi tiết có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản: chi tiết Tú Uyên nhớ thương Giáng Kiều, hối hận, sinh ra sầu não, đau ốm, định quyên sinh. Đúng lúc ấy, Giáng Kiều hiện ra và tha lỗi cho chồng. Hai người nối lại tình xưa.
→ Chi tiết là là yếu tố tháo gỡ nút thắt, mở ra cái kết đẹp cho câu chuyện. Dù chi tiết mang tính hoang đường nhưng nó đã thể hiện được ước vọng vào ngày mai tươi sáng hơn của tác giả, đồng thời thể hiện xu hướng giải tỏa tâm thức của con người lúc bấy giờ, muốn thoát ly thế giới thực tại đầy bi ai, đầy dẫy bất trắc để tìm về nơi yên bình.
Câu 3 (trang 67, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Phân tích đặc điểm của nhân vật Tú Uyên và Giáng Kiều thể hiện qua văn bản.
Phương pháp:
Sau khi đọc và tìm hiểu nội dung văn bản, dựa vào những chi tiết nổi bật, phân tích đặc điểm của nhân vật Tú Uyên và Giáng Kiều.
Trả lời:
- Tú Uyên: giàu tình cảm, si mê và chung thủy; một lòng một dạ yêu Giáng Kiều từ cái nhìn đầu tiên.
- Giáng Kiều: xinh đẹp, hiền dịu, chung thủy; mến mộ và một lòng son sắt với Tú Uyên “túc trái tiền nhân”.
Câu 4 (trang 67, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Nhận xét về cách thể hiện thái độ, tình cảm của nhân vật Giáng Kiều qua lời thoại dưới đây.
Phương pháp:
Phân tích nội dung của lời thoại từ đó đưa ra nhận xét về cách thể hiện thái độ, tình cảm của nhân vật Giáng Kiều.
Trả lời:
Qua lời thoại, nhân vật Giáng Kiều khuyên ngăn chồng bỏ ý định tự tử bởi nhân duyên của hai người họ là tiền kiếp, không dễ dàng mà nàng xuống cõi trần và nên duyên cùng Tú Uyên. Đồng thời Giáng Kiều khẳng định luôn một lòng với Tú Uyên cho dù có chuyện gì xảy ra.
→ Có thể thấy, nhân vật Giáng Kiều là người con gái chung thủy, sắt son một lòng với chồng, dù cho trước khi Tú Uyên có gây ra lỗi lầm khiến Giáng Kiều bỏ về cõi tiên. Hơn thế nữa, nàng còn có tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng bỏ qua lỗi lầm của chồng, nối lại duyên xưa.
Câu 5 (trang 68, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Dấu hiệu nào trong đoạn trích cho thấy đây là truyện thơ Nôm bác học?
Phương pháp:
Tìm hiểu về khái niệm và dấu hiệu nhận biết truyện thơ Nôm bác học, vận dụng, tìm và chỉ ra dấu hiệu nhận biết có trong đoạn trích.
Trả lời:
Dấu hiệu chi thấy văn bản thuộc truyện thơ Nôm bác học là:
- Được sáng tác dưới hình thức văn vần, xoay quanh đề tài tình yêu.
- Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình.
- Cốt truyện xoay quanh số phận của 2 nhân vật chính với nội dung phản ánh số phận.
- Có chất lượng nghệ thuật cao khi nói đến hình ảnh Giáng Kiều.
Câu 6 (trang 68, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì?
Phương pháp:
Sau khi tìm hiểu nội dung đoạn trích, rút ra bức thông điệp mà tác giả gửi đến người đọc.
Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là cần biết trân trọng những thứ có hiện tại. Dù để đạt được điều gì đó rất khó, khi đạt được có thể thỏa mãn với thành tựu của mình nhưng không nên buông thả bản thân để mất đi những gì đáng quý để rồi đến khi mất đi mới biết trân trọng.
Câu hỏi (trang 68, SGK Ngữ Văn 11, tập một CTST):
Hãy diễn xuôi đoạn trích này và nhận xét sự khác biệt giữa đoạn trích và đoạn diễn xuôi về hiệu quả thể hiện nội dung của tác phẩm.
Phương pháp:
Diễn xuôi đoạn trích theo ý hiểu của bản thân sau khi tìm hiểu kĩ đoạn trích. Sau khi diễn xuôi, đưa ra nhận xét về sự khác biệt giữa đoạn trích và đoạn diễn xuôi về hiệu quả thể hiện nội dung của tác phẩm.
Đoạn tham khảo:
Chàng tưởng có người nào đó ở trên lầu cao ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một cô gái rất đẹp. Thấy nàng liếc mắt nhìn, chàng lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Lòng Tú Uyên như nở hoa. Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng nhiên biến mất. Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu, mãi đến tối mới trở về nhà.
Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng, không thiết gì ăn uống, học hành. Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng, chàng đến xin quẻ, rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng.
Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông. Đợi mãi mới gặp một ông già bán tranh, đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ. Chàng mở ra xem thì hình dạng người tố nữ trong tranh chẳng khác gì người mà mình mong đợi. Chàng mua ngay, đem về treo bên cạnh chỗ ngồi. Đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát mời người đẹp trong tranh cùng ăn như mời người thật. Chàng hơi ngạc nhiên, cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng như có ý thẹn.
Một hôm, Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu có ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn. Tiếp mấy hôm sau, mâm cơm đều dọn như thế. Chàng nửa ngờ nửa mừng không hiểu ra làm sao.
Hôm khác, chàng giả tảng đi học, nửa đường lộn về, nấp ngoài cửa sổ dòm vào. Chàng thấy người đẹp trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Chàng đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt tay nàng mà rằng:
- Để tôi bấy lâu trông đợi mòn mỏi con mắt! Thôi, bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu.
Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa. Chàng giơ tay lên trời thề bồi. Hai người chuyện trò hồi lâu.
Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật ấy. Ba năm trôi qua, chàng không lai vãng đến học hành. Dần dà trở nên nghiện rượu. Đã uống là uống đến say. Khi say không còn biết trời đất là gì. Thậm chí nhiều lần mắng chửi vợ.
Giáng Kiều giận lắm. Một hôm chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về nhà, nàng vực vào giường, rồi nhân lúc chồng ngủ thiếp đi, nàng bay về trời.
Tỉnh rượu, Tú Uyên không thấy vợ đâu, rất lấy làm hối hận. Suốt một tháng, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không sao giảm được ưu sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn tự vẫn cho xong đời. Nhưng khăn vừa vắt lên xà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến. Giáng Kiều đã hiện ra trước mặt. Chàng vừa mừng vừa thẹn, thề xin trừ hẳn rượu. Từ đó, hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa.
Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một bé trai. Đứa bé lớn lên rất thông minh, học ngày một giỏi.
Một đêm nọ, bỗng có hai con hạc đến đón ở sân. Hai vợ chồng dặn con ở lại rồi cưỡi hạc bay lên trời. Kể từ đó, trong dân gian lưu truyền câu chuyện về sự tích Tú Uyên – Giáng Kiều.
→ Sự khác biệt giữa đoạn trích và đoạn diễn xuôi về hiệu quả thể hiện nội dung của tác phẩm: Đoạn trích thì lời nói sống động, ngôn từ trữ tình thể hiện được sự ẩn dụ nhưng người đọc khó hiểu và theo dõi văn bản còn đoạn diễn xuôi có thể hiểu dễ dàng hơn, dễ theo dõi nội dung hơn tuy nhiên thì lời nói không được trau chuốt bằng đoạn trích.
Bài viết liên quan
Các bài khác cùng chuyên mục