Loigiaihay.com 2024

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học - Văn 10 KNTT

Bình chọn:
3.2 trên 5 phiếu

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học trang 61, 62, 63, 64, 65, 66 SGK Văn 10 kết nối tri thức tập 2. Câu 1. Chủ đề của Chữ người tử tù đã được tác giả bài viết khái quát qua những câu nào? Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách dẫn dắt như thế nào?

Câu 1. 

Chủ đề của Chữ người tử tù đã được tác giả bài viết khái quát qua những câu nào?

Trả lời:

Chủ đề của Chữ người tử từ được tác giả khái quát qua những câu:

Chữ người tử tù dựng lên một thế giới tăm tối, tù ngục, trong đó, kẻ tiểu nhân, bọn độc ác bất lương làm chủ. Trên cái tăm tối ấy, hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, viên quản ngục và viên thơ lại- những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí.

- Ba đốm sáng cô đơn ấy cuối cùng cũng tụ lại, tạo thành ngọn lửa ngùn ngụt rực sáng giữa chốn ngục tù – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

- Cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn đã tập hợp họ lại giữa cái nơi xưa nay chỉ có gian ác, thô bỉ và hôi hám.

Câu 2. 

Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách dẫn dắt như thế nào?

Trả lời:

Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách dẫn dắt gián tiếp vô cùng khéo léo.

- Tác giả đã giới thiệu khái quát về thế giới nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân, từ đó định hướng nhìn nhận vai trò của nhân vật trong việc thể hiện chủ đề, và sau đó mới khái quát chủ đề của câu chuyện.

- Người viết đã khẳng định sự nhìn nhận sự chi phối của chủ đề với nhân vật, và rút ra kết luận là khẳng định lại ý nghĩa của chủ đề.

Câu 3. 

Ý nghĩa của chủ đề và nhân vật được khẳng định như thế nào qua bài viết?

Trả lời:

     Ý nghĩa của chủ đề và nhận vật được tác giả khẳng định là vô cùng quan trọng, có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm và được thể hiện qua câu văn:

     “Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người đê tiện hơn. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sáng trong hơn, Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”.

Câu 4. 

Thực hành viết bài nghị luận đánh giá tác phẩm truyện (Chủ đề và nhân vật trong tác phẩm truyện)

Phương pháp:

- Ôn lại những kiến thức về văn nghị luận.

- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm đã lựa chọn: Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm Chiếc lược ngà.

- Triển khai luận điểm, luận cứ một cách rõ ràng và logic.

- Chú ý ngôn ngữ, giọng điệu, lời văn cần có sự liên kết và mạch lạc.

Trả lời:

Dàn ý tham khảo phân tích chủ đề và nhân vật của truyện “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)  

* Mở bài: 

- Giới thiệu khái quát về Thạch Lam: nhà văn lãng mạn, nhưng các lại giàu yếu tố hiện thực và thấm đượm tấm lòng nhân ái cùng niềm xót thương cho những con người nhỏ bé, bất hạnh.

- Giới thiệu chung về tác phẩm “Hai đứa trẻ”: năm sáng tác (1938)

* Thân bài: 

Ý 1: Khái quát chủ đề của truyện: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.”

→ Truyện nói về những kiếp đời tàn sống trong bóng tối của nghèo đói, nhàm chán, tất cả họ đều khao khát đổi thay, khao khát hướng ra ánh sáng.

Ý 2: Phân tích cuộc sống nghèo khổ, mòn mỏi, tù túng của các nhân vật

- Cảnh sống nghèo khổ, tù túng

- Bức tranh không gian phố huyện ngập đầy bóng tối

Ý 3: Phân tích những mong đợi của nhân vật thể hiện trong cảnh đợi tàu.

- Nguyên nhân đợi tàu

- Hình ảnh đoàn tàu trong cảm nhận của Liên và An

- Ý nghĩa biểu tượng của đoàn tàu

* Kết bài: 

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+ Nội dung: 

+ Đặc sắc nghệ thuật: 

- Cảm nhận chung về giá trị tác phẩm.

3. Viết 

Viết bài theo dàn ý đã lập.   

* Bài viết tham khảo: 

          Thạch Lam là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn và cũng là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Ông được biết đến với tư cách là một nhà văn lãng mạn, nhưng tác phẩm của ông lại giàu yếu tố hiện thực và thấm đượm tấm lòng nhân ái cùng niềm xót thương cho những con người nhỏ bé bất hạnh. Mỗi truyện ngắn của ông được ví như một bài thơ trữ tình đượm buồn và "Hai đứa trẻ" cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Tác phẩm thể hiện niềm xót thương chân thành và thấm thía của nhà văn với những kiếp người cơ cực, quẩn quanh, mòn mỏi trong phố huyện tăm tối, đồng thời thông qua nội dung tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng, nâng niu với những mong ước khiêm nhường, nhỏ nhoi trong tâm hồn họ, đúng như câu văn đã khái quát được cả chủ đề của truyện: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ."

          Tác phẩm đã xây dựng bức tranh nơi làng quê chìm trong bóng tối. Ấn tượng đầu tiên gợi lên trong tâm trí người đọc về bức tranh phố huyện lúc trời tối chính là hình ảnh bóng đêm. Một bóng đêm khổng lồ rộng lớn trùm lên con người và cảnh vật: "Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối", "Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa." Trong bóng tối bao trùm phố huyện vẫn thấp thoáng hiện ra ánh sáng, nhưng cũng chỉ là thứ ánh sáng rất đỗi nhỏ bé yếu ớt: ở một vài cửa hàng, cửa chỉ hé ra một vài "khe ánh sáng"; "quầng sáng thân mật" quanh ngọn đèn chị Tí; một "chấm" lửa nhỏ từ gánh phở của bác Siêu và cả "hột" sáng thưa thớt trong ngọn đèn nhà Liên lọt qua phên nứa. Có thể thấy ánh sáng vẫn còn rải rác trong không gian phố huyện nhưng nó le lói như chính cuộc đời, số phận của những người dân phố huyện. Trong tương quan giữa bóng tối và ánh sáng, ta thấy bóng tối bao trùm, ngự trì, dày đặc, còn ánh sáng thì nhỏ nhoi, mong manh đến tội nghiệp. Phải chăng đây đều là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng? Bóng tối gợi người ta liên tưởng đến sự nghèo đói, tù túng, bế tắc, còn ánh sáng chính là niềm tin, hy vọng, là ước mơ của con người.

"Bóng tối" trong tác phẩm còn là bóng tối của của cuộc đời biết bao con người nơi phố huyện. Mẹ con chị Tí ban ngày mò cua bắt tép, tối về dọn hàng nước, như một thói quen, khách hàng cũng quen thuộc, ngày qua ngày tẻ nhạt, nhàm chán, lặp lại trong mỏi mòn và đơn điệu, trong cái chép miệng ngán ngẩm: Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì. Bác Siêu cùng cái bóng “mênh mông ngả xuống…” gợi ra cảm giác về kiếp người cô đơn, lủi thủi, tội nghiệp. Gánh phở chẳng ăn nhập với phố huyện nghèo, nhưng bác cứ quẩn quanh và bế tắc trong mưu sinh như thế. Gia đình bác xẩm với những đứa con nhặt rác và âm thanh của tiếng đàn bầu buồn bã. Bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách, với cử chỉ ngửa cổ ra đằng sau uống một hơi cạn sạch cút rượu rồi từ từ đi lẫn vào bóng đêm… Cảnh hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ không chỉ thể hiện cảm giác sợ hãi mà còn bộc lộ nỗi xót thương, ái ngại cho một kiếp người tàn lụi đang hiện lên trước mắt. Liệu rồi đây nếu cứ mải quẩn quanh nơi phố huyện tù đọng nghèo khó này thì những người như chị Tí, như Liên có trở nên giống như cụ Thi điên hay không? Cuộc đời họ có tươi sáng hơn hay cũng chìm vào bóng tối như Thi điên tan biến vào bóng tối trước mặt Liên và An? Bản thân hai chị em Liên cũng đang sống trong một kiếp đời tàn. Mặc dù đang ở tuổi ăn tuổi lớn, cái tuổi hồn nhiên tươi vui nhưng cuộc sống của hai chị em ngày này qua ngày khác chỉ bó hẹp trong không gian phố huyện và trói buộc với một cửa hàng tạp hóa bé xíu để mưu sinh. Từ ngày bố bị mất việc, cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về quê, cuộc sống của hai chị em không còn bất cứ niềm vui, hi vọng nào. Hình ảnh của cuộc sống tươi vui hạnh phúc nhiều màu sắc chỉ còn lại trong kí ức xa xôi mơ hồ.

“Chừng ấy người” sống chìm khuất trong bóng tối của sự khổ nghèo, mỏn mỏi, đơn điệu, tù túng. Nhưng họ vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Thông qua cảnh đợi tàu, Thạch Lam đã thắp sáng những ước mơ trong họ về một sự thay đổi. Đêm nào Liên và An cũng cố thức để đợi đoàn tàu từ Hà Nội đi qua phố huyện, không phải để bán hàng, mà để nhìn ngắm một hoạt động rộn ràng cuối ngày, một thế giới khác đi ngang qua. Khi tàu chưa đến, họ mong đợi, háo hức trông ngóng thấy chiếc đèn ghi, màu ngọn lửa xanh biếc và nghe thấy tiếng còi vang lại… Khi tàu đến, họ choáng ngợp, ngây ngất trước âm thanh rầm rộ của đoàn tàu, trước các toa đèn sáng trưng, những toa hạng sang lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh… Khi tàu đi xa, họ ngậm ngùi, nuối tiếc, nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo ở toa sau cùng, xa mãi rồi khuất lấp sau rặng tre.... Đoàn tàu ấy mang đến một thế giới khác: nếu phố huyện tàn tạ, tối tăm thì đoàn tàu sáng trưng và rực rỡ, nếu phố huyện tù đọng, ngưng trệ thì đoàn tàu náo nhiệt và sống động, nếu phố huyện xơ xác, nghèo khổ thì đoàn tàu sang trọng và giàu có. Sự khác biệt sâu sắc giữa hai thế giới đó là nguyên nhân của niềm khao khát đợi tàu của Liên và An. Cho dù đoàn tàu đến và đi rất nhanh, giống như một viên đá ném xuống ao tù chỉ đủ gợi lên một gợn sóng rồi mọi thứ lại trở về như cũ, đối với hai đứa trẻ, đó lại thực sự là những giây phút đáng sống nhất trong ngày. Nó là biểu tượng cho một thế giới thật đáng sống, biểu tượng cho ngày xưa, cho hạnh phúc, cho sung túc…

Qua tác phẩm nói chung và và cảnh đợi tàu nói riêng, người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng của Thạch Lam đối với những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh đang bị lãng quên trong cuộc đời. Nhà văn đã trân trọng, nâng niu khát vọng vượt ra ánh sáng, thoát khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh, không cam chịu hiện thực tầm thường, nhạt nhẽo đang vây quanh hai đứa trẻ. Phải yêu thương, thấu hiểu nhân vật biết bao, nhà văn mới để cho nhân vật của mình được tiếp tục ước mơ và khát vọng về một cái gì đó tươi sáng hơn, đẹp đẽ hơn trong cuộc sống nghèo khổ, trong cảnh tù đày tăm tối nơi con phố huyện nhỏ nghèo nàn.

Sachbaitap.com

Bài tiếp theo

Bài viết liên quan