1. Vì sao có thể nói, quan điểm nghệ thuật của Nam Cao khá hệ thống, toàn diện và tiến bộ ?
Trả lời:
Nam Cao là một trong số không nhiều các nhà văn trước Cách mạng tự giác về quan điếm nghệ thuật. Mặc dù không có những tác phẩm chính luận chuyên bàn về quan điểm nghệ thuật, nhưng rải rác trong các sáng tác của Nam Cao, ta thấy quan điểm nghệ thuật của ông khá hệ thống, nhất quán và có nhiều điểm tiến bộ so với phần đông nhà văn cùng thời. Nhiều khía cạnh trong quan điểm đó chứng tỏ sự phát triển ở trình độ cao của tư duy nghệ thuật hiện thực. Bởi thế, có thể nói, phải đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam mói thực sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó. Phần này trong SGK đã trình bày khá kĩ, ở đây chỉ lưu ý một số điểm sau:
- Kể từ năm 1940 trở đi, đặc biệt là từ năm 1943, với sự ra đời của bản Đề cương vãn hoá của Hội Văn hoá cứu quốc, xác định quan điểm nghệ thuật trở thành một vấn đề tâm huyết trong nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao,... Trong số này, tiêu biểu hơn cả là Nam Cao. Có thể nói, ông là người phê phán văn học lãng mạn tiêu cực một cách kiên quyết, triệt để và toàn diện nhất. Ông cho rằng âm hưởng chủ đạo của các tác phẩm lãng mạn thoát li là “cái giọng sướt mướt của kẻ thất tình”. Nhà văn phê phán đích đáng bệnh chạy theo thời thượng của các cây bút lãng mạn thoát li lúc bấy giờ : “đua nhau tả những cuộc tình duyên của trai thành thị gái đồng quê. Vai chủ động trong các truyện ấy đều là những cô thôn nữ rất đẹp, rất hiền, rất ngây thơ” (Một chuyện xú vơ nia).
- Lên án văn học lãng mạn thoát li, Nam Cao khẳng định văn học hiện thực, khẳng định nghệ thuật vị nhân sinh. Ông cho rằng “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối ; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” ; nhà văn cần phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời...” (Giăng sáng).
- Nam Cao quan niệm một tác phẩm hiện thực phải có giá trị phổ quát: “vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn”, đặc biệt phải thấm nhuần nội dung nhân đạo cao cả : “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa). Phải đặt quan điểm này vào hoàn cảnh phức tạp của văn học Việt Nam đương thời mới thấỵ hết ý nghĩa của nó, mới thấy yêu cầu xác đáng của Nam Cao đối với một tác phẩm hiện thực chủ nghĩa chân chính.
- Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng, Nam Cao là người có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Theo ông, nghề viết văn trước hết phải là một nghề sáng tạo. Nhà văn phải biết “khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có", ông châm biếm sâu cay những cây bút thiếu bản lĩnh, a dua chạy theo thị hiếu tầm thường “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”. Để làm được công việc khó khăn ấy, Nam Cao cho rằng nhà văn phải “đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán” và có lương tâm nghề nghiệp, nhất là không được cẩu thả, “cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” (Đời thừa).
2. Nêu vắn tắt những giá trị nổi bật ở mỗi mảng đề tài trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng.
Trả lời:
Trước Cách mạng, Nam Cao đã có khoảng hơn 60 tác phẩm được in, tập trung vào hai mảng đề tài người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.
Anh (chị) cần đọc kĩ mục II.2, SGK để làm bài tập.
3. Hãy trình bày ngắn gọn đặc điểm bút pháp nghệ thuật của Nam Cao.
Trả lời:
Nam Cao là cây bút có phong cách nghệ thuật độc đáo :
- Có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật.
- Tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm sinh động, chân thật.
- Phá vỡ lối kết cấu theo trình tự thời gian truyền thống.
- Miêu tả những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh hằng ngày mà nêu được những triết lí sâu sắc.
- Có giọng điệu riêng.
4. Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao đã nói lên được điều gì về tính hiện thực và nhân đạo của tác phẩm ?
Trả lời:
- Theo yêu cầu của đề, phải từ hình tượng của nhân vật mà nói rõ giá trị của tác phẩm. Vì vậy, không thể chỉ nói các giá trị mà không có những bằng chứng rút ra từ hình tượng nhân vật hoặc chỉ kể lại hình tượng nhân vật không nhằm một định hướng nào.
- Tác phẩm trong ý nghĩa khách quan, có thể hàm chứa nhiều giá trị. Trước hết phải làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Có như vậy, trọng tâm của bài mới nổi rõ đúng như đề ra.
- Sau phần mở đầu, lần lượt trình bày từng giá trị. Giá trị hiện thực chủ yếu là phản ánh đúng đắn sự tha hoá của người nông dân dưới ách thống trị của bọn phong kiến, đế quốc thời Pháp thuộc. Giá trị nhân đạo chủ yếu là sự phản ánh “trong cùng cực”, Chí Phèo vẫn mong muốn một cuộc sống bình thường, một hạnh phúc giản đơn. Cái thiện căn của con người vẫn chưa chết hẳn.
- Khi đề cập đến giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm, cũng nói đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật với các chi tiết cụ thể, có lựa chọn.
Để tránh trùng lặp, những tìm tòi quan sát này có thể không tách thành từng phần riêng biệt.
Sachbaitap.com
>> Học trực tuyến Lớp 11 cùng thầy cô giáo giỏi trên Tuyensinh247.com. Bứt phá điểm 9,10 chỉ sau 3 tháng. Cam kết giúp học sinh lớp 11 học tốt, hoàn trả học phí nếu học không hiệu quả.
Bài viết liên quan
Các bài khác cùng chuyên mục