Câu hỏi 1 (Trang 143, SGK Ngữ văn 12 - CTST tập 1)
Câu hỏi:
Xác định biện pháp tu từ nghịch ngữ trong các trường hợp dưới đây và cho biết tác dụng của biện pháp này:
a. Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng nói vào - Một đám ma gương mẫu
(Nhan đề một chương trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
b. Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấy.
Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu, nên chọn vào đêm thứ Sáu. Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báo. Và đến chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hữu đi đưa đông. Ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám rét, tống táng mới mong chóng được.
(Nguyễn Công Hoan, Thịt người chết)
Lời giải:
a. Đám ma >< hạnh phúc
→ Nghịch lý, đám ma dường như mất đi không khí thông thường mà trở nên hỗn độn, hài hước như một sân khấu rộng lớn, nơi có rất nhiều diễn viên cùng nhau hoàn thành một vở kịch đầy giả tạo.
b. Chết phải chọn ngày
→ Nghịch lí, anh nông dân có tên là Xích vì “vô học, ngu dốt” nên đã không biết chọn cho mình cách chết và giờ chết.
Câu hỏi 2 (Trang 143, SGK Ngữ văn 12 - CTST tập 1)
Câu hỏi:
Đọc các ngữ liệu sau và tìm những cách diễn đạt trái với cách diễn đạt thông thường. Nêu hiệu quả của việc sử dụng cách diễn đạt ấy.
a. Trưởng bưu cục - Sao lại không? Được ông vay tiền, thực là hạnh phúc rất lớn. Thưa ông, đây, xin rất vui lòng. Tôi xin tận tâm tận lực sẵn sàng hầu ông.
(N. Gô-gôn, Quan thanh tra)
b. Chánh án - Ấy chết! Sao ông lại nghĩ thế! Được ông nhận tiền, thực vinh dự cho tôi quá rồi. Cố nhiên, tôi đem hết tài hèn sức mọn, lòng nhiệt thành, sốt sắng đối với quan trên... để cố gắng sao cho xứng đáng...
(N. Gô-gồn, Quan thanh tra)
Lời giải:
a. Vay tiền: đáng lẽ tâm trạng người cho vay phải không thấy vui vẻ nhưng đây lại thấy hạnh phúc.
→ Thực chất hành động “cho vay" là cách nói nhẹ đi của hành động “đút lót". Vốn dĩ trưởng bưu cục đang thấy lo lắng sợ “quan thanh tra" không nhận tiền đút lót.
b. Nhận tiền: đáng lẽ tâm trạng người đưa tiền phải thấy không thoải mái nhưng đây lại thấy vinh dự vì quan thanh tra “nhận tiền"
→ Thực chất đây cũng là hành động “đút lót", cách diễn đạt khiến cho câu chuyện hài hước, châm biếm hơn.
TỪ ĐỌC ĐẾN VIẾT
Câu hỏi (Trang 143, SGK Ngữ văn 12 - CTST tập 1)
Viết một đoạn hội thoại (khoảng từ bảy đến tám lượt lời) về chủ đề Tiếng cười trên sân khấu và cuộc sống, trong đó có sử dụng biện pháp tu từ nghịch ngữ. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp này.
Lời giải:
Nhân vật:
A: Một người yêu thích sân khấu
B: Một người không thích sân khấu
Hội thoại:
A: Dạo này bạn có đi xem vở hài nào mới không? Vui lắm!
B: Hài hước gì chứ? Cuộc sống đã đầy rẫy những mệt mỏi, căng thẳng, cần gì thêm tiếng cười trên sân khấu?
B: Niềm vui ư? Liệu có thực sự là niềm vui khi ta cười trên nỗi đau của người khác?
A: Nỗi đau ư? Không hẳn vậy! Sân khấu hài hước thường châm biếm những thói hư tật xấu, những bất công trong xã hội, giúp con người nhìn nhận vấn đề một cách nhẹ nhàng và sâu sắc hơn.
B: Nghe có vẻ cũng hợp lý. Nhưng liệu tiếng cười trên sân khấu có giúp giải quyết được những vấn đề đó?
A: Chắc chắn không thể giải quyết hoàn toàn, nhưng nó có thể thức tỉnh con người, khiến họ suy ngẫm và thay đổi bản thân. Tiếng cười là cầu nối giúp con người xích lại gần nhau, cùng nhau hướng đến những giá trị tốt đẹp.
B: Ừm, có lẽ bạn nói đúng. Có thể tôi sẽ thử đi xem một vở hài nào đó để trải nghiệm cảm giác "khóc ra nước mắt" mà bạn hay nói.
Biện pháp tu từ nghịch ngữ được sử dụng:
"Khóc ra nước mắt": Đây là một cách nói trái với nghĩa đen, thường dùng để diễn tả trạng thái vừa buồn vừa vui.
Tác dụng:
- Tạo sự bất ngờ, thu hút sự chú ý của người đọc.
- Thể hiện sự hài hước, dí dỏm cho câu văn.
- Nhấn mạnh tác động mạnh mẽ của tiếng cười trên sân khấu, khiến người xem có thể vừa cười vừa khóc.
Sachbaitap.com
Bài viết liên quan
Các bài khác cùng chuyên mục